Sau
khi bài viết về “Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ” được đăng trên Việt Báo ngày 11/11/14,
trong đó tôi có nói đến Đại Úy Sheehan, là cố vấn Tiểu Đoàn 2/TQLC, sau này ông
ta về Mỹ và lên tới cấp tướng 4 sao, là Tư Lệnh NATO, thì một bạn cùng đơn vị, ra
đi từ 1975, hiện định cư tại Paris 13, gửi email cho tôi, trong đó có một câu nửa
đùa nửa thật như thế này:
Hồi đó, 1968, ông Sheehan là đại úy cố
vấn, sau này ông ta lên tới tướng 4 sao và là Tư Lệnh NATO, còn bạn lúc đó là đại
úy đại đội trưởng, sau vào tù CS rồi ra đi HO thì nay bạn làm được cái “thống
chế” gì chưa, hay vẫn là tư lệnh “NATO”?
Tôi hiểu ý bạn tôi viết
chữ “NATO” trong ngoặc kép là muốn ám chỉ “No action, talk only”, bạn ấy muốn
chọc quê tôi có làm được chuyện gì ra hồn đâu mà chỉ nói thôi. Tôi thấy đúng
quá và vui vì cách gán ghép này nên email hồi âm:
_ Bị đi tù thì làm sao
là tướng, nhưng nhìn thế hệ thứ hai làm tướng là sướng rồi.
Trong chỗ bạn bè đơn vị
cũ, chiến trường xưa, chúng tôi thường có những câu đùa vui để nhớ về dĩ vãng, nhớ
về “thời oanh liệt ấy nay còn đâu”! Tuy rằng đường binh nghiệp nửa đường gẫy
gánh, tuy không được làm tướng, nhưng an ủi nhau rằng trước sau gì cũng là “Anh
Sáu”.
Ngày xưa trong quân đội,
chỗ thân tình anh em, chúng tôi thường gọi những vị đại tá mà chúng tôi kính trọng
là “Anh Sáu”, nhưng nay, sống đời tỵ nạn, người lính trẻ nhất cũng lục tuần,
chúng tôi đang sắp hàng tấn công lên đồi... nên “anh sáu” còn có hàm ý là sáu tấm.
Trước khi làm anh sáu..., được mặc áo quan thì hãy ôn lại với nhau, sau 40 năm
tỵ nạn, chúng ta đã làm được những gì hay chỉ nói thôi?
Mau
thật, thế mà đã 40 năm rồi đấy, kể từ ngày “gẫy súng”, đã quá nửa đời người rồi
mà sao tôi thấy mọi chuyện cứ như mới xẩy ra ngày hôm qua. “Hôm qua”, ngồi
trong Trung Tâm Hành Quân Thủy Quân Lục Chiến tại căn cứ Non Nước Đà Nẵng thì
tôi nhận được tin Đại Úy Tô Thanh Chiêu tử trận và mất xác tại bãi biển Thuận
An! “Hôm qua”, lúc 6 giờ 30 sáng, các Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng,
Trần Văn Hợp và tôi cùng đứng bên bờ biển Non Nước, chia nhau điếu thuốc, ngụm
cafe đựng trong cái ca nhôm nhà binh, cafe không đường, miệng chúng tôi đang đắng
nghét, càng đắng thêm. “Hôm qua”, sau khi nghe “Đại Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Đội”
ra lệnh bắt chúng tôi buông súng, thì từ anh cả là Đại Tá Tư Lệnh Phó đến chú
em út Binh Nhì đều ngửa mặt lên trời nuốt nước mắt rồi kêu thầm: “mất nước rồi”!
“Mất nước là mất tất cả”,
mà thời gian trôi qua quá nhanh, “hôm qua và hôm nay”, cách nhau 40 năm mà như chỉ
cách nhau “24 giờ phép, 4 giờ đi lại thêm 4 giờ về” nên chúng tôi, những cựu
quân nhân có làm được gì đâu! Sau những năm tháng tù đày và “kéo cày” trên mảnh
đất tạm dung đầy sỏi đá về ngôn ngữ. “Chí tuy còn mong tiến bước, nhưng sức
không kham nổi đoạn đường” nên còn chút hơi để thở, để nói, “talk ony” là quý lắm
rồi. Chúng tôi nói với chính mình, nói với các bạn đồng minh và nói với con
cháu, gọi là thế hệ thứ hai, thứ ba.
1/ Nói Với Chính Mình:
Ai đã từng là quân
nhân, đã đội trên đầu câu: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”, đã đưa cao tay thề
nơi vũ đình trường thì thời gian, không gian nào, dù “giấy rách cũng phải giữ lấy
lề”, nên đại đa số các cựu quân nhân đã, đang và sẽ cùng với cộng đồng người Việt
tỵ nạn xây dựng một xã hội mới. “Chúng ta đi mang theo quê hương” nên từ văn
hóa, chính trị, kinh tế đang lớn nhanh trên đất tạm dung này.
Những cộng đồng gốc Á
Châu khác, họ đã đến Mỹ hẳng trăm năm trước, đến từ lúc là công nhân làm đường
rầy xe lửa cho người bản xứ đi tìm vàng nên họ có China Town, Korean Town,
Japan Town v.v.. chúng ta vừa mới chân ướt, chân ráo đến đây trong hoàn cảnh chạy
giặc mà Quốc Kỳ VNCH đã tung bay khắp nơi, đã có Little Saigon, tuy chưa nhiều,
nhưng rồi sẽ có nhiều. Mua một căn nhà cũng cần thời gian 30 năm mới trả xong nợ.
Chỉ mới có 40 năm mà chúng ta đã xây dựng được một cộng đồng người Mỹ gốc VN
như thế là đáng hãnh diện rồi. Mỗi người tỵ nạn xin xét mình để góp sức vào sự
thành công này.
2/Nói Với “Đồng Minh”:
Thành
phần phản chiến đi với tuyên truyền của VC đã khiến một số người dân, giới chức
Hoa Kỳ hiểu lầm về cuộc chiến đấu chính nghĩa của chúng ta và hậu quả là những
gì thì ai cũng biết, điều nguy hiểm hơn nữa là sách báo nói láo của VC tiếp tục
chui vào “quần” chúng Mỹ.
Thầy Dan, giáo sư dạy Sử
về chiến tranh Việt Nam ở Shoreline Communit College, WA, ông cứ theo sách
trong thư viện mà dạy, mà ca tụng HCM và CS, bởi vì chúng ta chưa nói cho họ biết
sự thật. Khi có học viên là một cựu quân nhân gốc Việt mang những vết thương
trên người ra chứng minh rằng sách báo VC nói láo thì ông giáo sư Dan mới tin.
Vì vậy, mọi công dân VNCH, mọi nơi, mọi lúc,
nên nói và phải nói cho các bạn “đồng minh” biết sự thật. Có nhiều người đã,
đang làm điều đó, dù công khai hay âm thầm, từ trường học đến sở làm và kết quả
rất đáng mừng, những người hiểu lầm đã dần dần tỉnh ngộ.
Về
văn học, đã có rất nhiều sách viết về chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa, về tội ác
VC đã được các nhà văn nhà báo Hoa Kỳ đọc và dịch sang tiếng Mỹ để phổ biến khắp
nơi, một trong những thí dụ điển hình là
cuốn “Giải Khăn Sô Cho Huế” của nhà văn Nhã Ca đã được Indiana University Press
chuyển ngữ thành “Mourning Headband For Hue”.
Đã có biết bao ngưởi Việt
tỵ nạn nói với “đồng minh” cho họ hiểu sự thật về cuộc chiến VN, vì sao chúng
ta có mặt tại đây. Tôi xin nêu ra một vài trường hợp cụ thể.
Người đồng minh Hoa Hỳ
từng chiến đấu bên cạnh quân đội VNCH thì sau 40 năm họ càng gắn bó thêm với
đơn vị xưa. Một tấm hình thay cho ngàn lời nói, tấm hình các cựu quân nhân Hoa
Kỳ sát cánh cùng các cựu BĐQ/VN dương cao Quốc Kỳ Việt Mỹ trong các buổi họp mặt
hằng năm mà họ gọi là: “Together Then Together Now”.
Với TQLCVN thì các cựu
cố vấn Mỹ, trong đó có các đại úy Sheehan và Hoar, sau này các ông là đại tướng
4 sao, chúng tôi vẫn “nói” với nhau nên càng ngày họ càng hiểu, càng nể phục
TQLC, nói riêng, và quân đội VNCH nói chung. Thomas Campbell, cựu cố vấn
TĐ2/TQLC sau khi về Mỹ, ông dạy môn lãnh đạo và chỉ huy tại Đại Học Austin
Texas và viết sách. Trong tựa đề một cuốn sách, Đại Tá hồi hưu Thomas Campbell
đã nói các TQLCVN Lê Hằng Minh, Nguyễn Thế Lương, Ngô Văn Định, Nguyễn Xuân
Phúc là “ my best teachers”, ông ta viết như sau:
***
In
November 1965 when I was assigned as an advisor to the Vietnamese Marines. I thought that I would make them better
Marines, but in the final analysis they made me a better Marine. I learned
things from them that are not taught in American military schools. My best
teachers were Major Le Hang Minh, Major Nguyen The Luong, Major Dinh Van Ngo,
Captain Nguyen Xuan Phuc and Minh’s ever faithful bodyguard.
This
is the story and the lessons.
Co
van My
Tom
Campbell
Austin,
Texas.
***.
Các cựu quân nhân hai
quốc gia hiểu nhau, đến với nhau đã là quý, nhưng qua lời nói và hành động của
mỗi người dân tỵ nạn khiến người dòng chính cảm phục mới là điều có ý nghĩa. Người
anh em của tôi, Phạm Lương, tâm sự trong bài viết: 15 năm làm worker cho Tiểu Bang”
Xin trích: Muốn làm công chức bình thường, không khó, nhưng
muốn được những worker khác và supervisor hay Director thay đổi thái độ đối với
mình, cần phải có thời gian và cách cư xử. Từ worker A&B thành worker C
bình thường phải cần từ 15-20 năm trong nghề, tôi đã trở thành worker C trong khoảng
3 năm. Công việc của worker C là Homeless Coordinator, là công việc nhiều người
phải lắc đầu, vì hàng ngày họ phải làm việc với nhóm người “tận cùng bằng số,
không còn gì để mất”, họ không có chỗ ở, không có tiền, nhưng khổ một nỗi, họ tự
cho là dòng chính, họ nhìn tôi vẫn chỉ là một người thiểu số Á Châu.
Tôi không đủ thâm niên khi làm Homeless Coordinator, nhưng
do khả năng làm việc và cách cư xử đã khiến cấp trên, đồng nghiệp, và cả những
“homeless” dần dần dành cho tôi sự quý mến và cảm phục. Bà Harriette Harris,
Director of Boston Family Housing, phỏng vấn tôi vì sao tôi lại có khả năng như
thế? Tôi trả lời, là một cựu quân nhân VNCH, tôi từng chiến đấu cho sự thật và
bảo vệ tự do, tôi đem kinh nghiệm đó vào nhiệm vụ của một Homeless Coordinator.
Bà Harriette Harris thực sự đã hiểu thế nào là người Việt tỵ
nạn CS, bà ta hứa chuyển tôi lên một nhiệm vụ khác cao hơn, khó hơn và dĩ nhiên
quyền lợi cũng thay đổi, bà ấy nói:
_ Hi. Mr. Pham. I
offer you a new Job Interview on.. at… Are you ready for the interview. You are
the first one I pick from the list.
Tất nhiên, tôi sẵn sàng, 3 ngày sau cuộc Job Interview, bà
ta lại nói:
_ Mr. Pham. Congratulation. I offer you the job. Are you
ready to work.
_ Thank you very much for the job. I am always ready.
_ I know that from the beginning of the interview. (She
laughs) (hết trích).
Một anh em kết nghĩa khác, Vương Mộng Long, ghi danh học lớp
History
274 “U.S. and Vietnam” với mục đích tìm
hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế
nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ
rơi Việt Nam, vì sao chúng ta đã thua trận. Nhưng gặp ông giáo sư dạy sử phản
chiến, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông ca tụng HCM như một lãnh tụ,
ông nói những phần có lợi cho VC. Đã có đôi lần Long dơ tay nêu ý kiến, thì ông
chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử: “Book said!”. Nhưng với quyết tâm nói cho “đồng
minh” biết sự thật, Long đã trình bày cho ông nghe những gì Long sống và chiến
đấu, cuối cùng ông phải phục người cựu quân nhân VNCH.
Xin trích đoạn bài
viết: “Ông Giáo Sư Dạy Sử” của Vương Mộng Long:
***
Thưa giáo sư.
Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới
sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút
được không?
Thầy Dan niềm nở:
- Dĩ nhiên là được.
Ông có điều gì cần cứ nói.
- Thưa giáo sư,
tôi là một người Việt-Nam tỵ nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Đội VNCH. Tôi
còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu
tiên của pháo đài bay B52 trên Cao Nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng
Ia-Drang...
Thầy chỉ biết tới
những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh,
và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị
thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong
số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với
thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước
tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần
có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu
hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào
là tình huynh đệ chi binh...
Suốt đời thầy
không hiểu được vì sao hơn 20 thương binh của BĐQ/VNCH phải mở đường máu rút
lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng
thương, và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt
Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của
Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc,
bóp méo tất cả những có liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc
Chiến-Tranh Việt-Nam...
Chúng tôi thất
trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người
Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui,
chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền
Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng...
Chúng tôi đã chiến
đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi
đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong
đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược
đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế!
Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy...
Ông thầy dạy Sử
như bừng tỉnh cơn mơ:
- Tôi tin lời
ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai
mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ,
chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ,
hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông.
Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những
lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước
mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay ra cho tôi bắt:
- Thưa người chiến
binh. Ông vừa lập một chiến công! (hết trích)
3/ Nói Với Thế Hệ Thứ Hai, Thứ Ba.
Nói với chính mình, nói với “đồng minh” chỉ là để ôn chuyện
cũ, “giấy rách phải giữ lấy lề”, còn nói với thế hệ thứ hai, thứ ba mới là
chuyện quan trọng, chuyện tương lai cho cộng đồng Việt trên đất tạm dung hay
cho chính quê hương VN không còn Việt Cộng.
Khi người bạn gọi tôi là thành viên “NATO”, tôi bảo chỉ cần
nhìn thế hệ thứ hai làm tướng là sướng rồi, đó là Tướng Lương Xuân Việt. Truyền
thông đã nói nhiều về vị Tướng gốc Việt đầu tiên này rồi nên tôi không cần nói
gì nữa, nếu cần thì tôi xin thêm thân phụ của Tướng Xuân Việt là TQLC Lương
Xuân Đương đã nói với con bằng chính hành động của mình, của một người lính.
TQLC Lương Xuân Đương đã “đi xa”, không thể đến tham dự ngày
vui của con, và Lương Xuân Việt không còn dịp kính tặng cha nụ cười hạnh phúc,
nhưng bù lại, đã có các TQLC là bạn của bố Đương đến chúc mừng Việt: “con hơn
cha là nhà có phúc”. Tướng Việt hạnh phúc, cười vui mãn nguyện khi thấy các bộ
quân phục TQLC của bố đến tham dự ngày Việt làm tướng.
Một
tuổi trẻ khác đang là cấp chỉ huy trên chiến hạm USS Carl Winson 70, với chức
vụ là Navy Commander, AIMD Aircraft Maintenance đó là Hải Quân Đại Tá Paul Long My
Choate.
Truyền thông Mỹ Việt đã nói nhiều về Hải Quân Đại Tá Long Mỹ
rồi. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là ít ai biết Long Mỹ là thế hệ thứ ba, anh
đã thừa hưởng từ ông ngoại lòng dũng cảm, tận tụy với nhiệm vụ và rồi ông ngoại
hy sinh vì nhiệm vụ. Ông ngoại của Long Mỹ là một phóng viên chiến trường trong
ngành Cảnh Sát Quốc Gia, ông đã hy sinh trong trận chiến Mậu Thân đợt hai. Xin
chúc Long Mỹ sẽ là vị tướng gốc Việt thứ hai trong quân đội Hoa Kỳ để ông ngoại
mỉm cười nơi chín suối.
Tôi xin nói thêm một thí dụ nữa về thế hệ thứ hai đã noi theo
gương cha. Giấc mơ của chúng tôi khi còn là SVSQ trường Võ Bị là được tuyển
chọn đi học Westpoint như một vài đồng môn khác, nhưng lực bất tòng tâm, nên
sau khi định cư tại Hoa Kỳ, Trương Khương khuyến khích các con vào Westpoint,
và “hổ phụ sinh hổ tử”, Trương Vũ và em gái là Trương Nha Trang đều tốt nghiệp Westpoint,
còn Trương Quân tốt nghiệp Air Force Academy
(Trung
Tá Trương Vũ và chiến trường Iraq)
Ngoài những sĩ quan Mỹ gốc Việt trên đây,
chúng ta còn rất nhiều thế hệ thứ hai trong quân đội Hoa Kỳ với nhiều cấp bậc
và chức vụ khác nhau, trong đó có con cháu của những TQLC Đoàn Trọng Cảo, Nguyễn
Văn Diễn, Phạm Văn Tình, BB Quan Văn Kính, Nguyễn Phước Ái Đỉnh, KQ Võ Phi Hổ
v.v.. đã đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ hoặc đã giải ngũ để tiếp tục con đường
học vấn.
Người Việt tỵ nạn CS cần
có một thống kê về số con em gia nhập quân đội Hoa Kỳ, cần có và phổ biến tài
liệu về những quân nhân Mỹ gốc Việt đã hy sinh trên chiến trường. Đó là những
trang sử anh hùng, những thành quả và đóng góp đáng ghi nhớ của người Việt trên
đất Mỹ sau 40 năm tỵ nạn. Tôi đề nghị Hội Quân Nhân Mỹ Gốc Việt, trong đó có
các luật sư đang hành nghề vốn là các cựu quân nhân nên lưu ý đến trang sử này,
hoặc trang Viết Về Nước Mỹ (VVNM) của nhật báo Việt Báo.
Ngoài những đóng góp về
quân sự, còn có biết bao con cháu chúng ta tham gia và thành công trong nhiều
ngành nghề khác nữa. Có rất nhiều “quan tòa” và luật sư gốc Việt mà truyền
thông nhắc tới, nhưng cũng có những luật sư âm thầm làm việc nghĩa, tôi xin đơn
cử một vài trường hợp.
Anh chị KQ Joseph-Đàm
Kim mời tôi đến tham dự lễ tốt nghiệp của 2 con, tôi thấy nổi bật trong đám
đông mũ tốt nghiệp của các tân khoa là hai cái mũ có chữ “FOR DAD” và “FOR MOM”
cháu gái Vân Anh tặng bố Joseph-To, cháu trai Quốc Anh tặng mẹ Đàm món quà quý
báu. Điều tôi muốn nêu ra ở đây là do bố làm việc thiện khiến hai cháu chưa vội
mưu sinh mà tình nguyện làm việc nghĩa theo gương bố trước đã.
Ít ai biết bố các cháu
vừa làm việc vừa tích lũy các lon nhôm, chai nhựa rồi mang bán cho các chỗ mua
đồ “recycle”, cứ mỗi 3 tháng, anh gom bạc cắc thu được rồi ký chi phiếu gửi tận
tay lão Bà Hạnh Nhơn, Hội Trưởng Hội H.O để giúp anh em thương binh, vì vậy hai
cháu theo gương bố, tình nguyện làm “Public Defender”. Các cháu luôn tìm mọi dịp
để tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư của các nghi can, đặc biệt là các nghi can thanh
thiếu niên gốc Việt.
Các cháu đang làm việc
tại Sacramento, nhưng các “thân chủ” nào ở vùng Quận Cam, nếu cần thì có thể
vào website sau đây để tham khảo với các luật sư Pubdef gốc Việt.
Luật sư Vân Khanh, ái nữ
của TQLC Lê Nguyên Khang thì lại dấn thân vào việc tìm sự sống cho cho các bệnh
nhân bị ung thư máu. Tôi đã nhiều lần gặp cô cùng các bạn trẻ trong những địa
điểm hội chợ y tế để kêu gọi “đồng hương giúp đỡ đồng hương”, xin đồng hương
cho một tí “nứơc bọt” để may ra, trong hằng chục ngàn người sẽ có người cùng tế
bào tủy với bệnh nhân để mà cứu sống những người đang chờ thần chết. Còn gì cao
quý cho bằng?
Cùng một nghĩa cử đối với
bệnh nhân ung thư, cháu Xuân Dung, ái nữ của nhà văn CXH, sau khi bố ra đi vì bệnh
ung thư mắt, cháu đã dồn tâm sức chạy bộ để gây quỹ giúp tổ chức Ocular Melanoma Foundation
(OMF) tài trợ các cuộc khảo cứu nhằm tìm ra phương thức điều trị tốt hơn và hy
vọng có được cách chữa được chứng ung thư này. Thư của cháu gửi bố:
Bố Yêu Quý.
Con dự cuộc chạy bộ này cho bố. Con chạy cho bố vì sự chịu đựng,
quyết tâm, và nhất là nỗi đau đớn (của cuộc chạy đường dài này) nhắc con nhớ
lại sức mạnh và ý chí của bố khi phải đối diện với một điều kinh khủng và hoàn
toàn mù mờ lúc đó. Lời chẩn đoán của bác sĩ là một cú shock cho bố và con, vì
mình hoàn toàn không biết mức độ của nó như thế nào. “Choroidal Melanoma” là
hàng chữ mình đọc trong kết quả thử máu, nhưng bố và con, mình chỉ biết hỏi
nhau và tự hỏi: “ung thư mắt?”, “dữ vậy sao?”. Chúng ta chẳng biết gì hết, Bố
cũng chẳng biết bệnh tình mình thế nào nữa.
Con ước gì lúc đó mình biết nhiều hơn thế, con ước gì lúc đó bố có
nhiều cách chữa trị để lựa chọn, con ước gì lúc đó có cách chữa bệnh cho bố…
Vì vậy, cuộc chạy này của con là để cho bố. Con chạy cuộc đua này để
ủng hộ cho tổ chức đang nỗ lực tìm ra cách chữa trị căn bệnh đó. Con biết là bố sẽ hãnh diện khi biết con bố làm chuyện này. Mỗi
ngày con tìm thấy phấn khởi và động lực trong cuộc sống từ bố và cuộc đời bố đã
sống. Con biết là bố lúc nào cũng bên con, và con biết là bố sẽ có mặt ở
đó khi con vượt đích đến của cuộc đua,
Con yêu bố.
Bé Xuân Dung.
Một cháu gái khác, vì muốn dấu tên và việc mình làm
nên tôi gọi cháu là Trần Như Tiên. Như Tiên đã sớm biết theo gương ông nội và
bố Trần Như H.. mà đem tình thương gieo khắp nơi, cháu cổ động phong trào làm
đẹp cho đời bằng cách nhờ bố cầm “tông-đơ” hớt trọc để lấy tóc của mình làm tóc
gỉa rồi đem tặng cho các bệnh nhân đang điều trị ki-mô. Chỉ có những phụ nữ mới
hiểu giá trị của mái tóc, mới hết ý nghĩa cao quý của cháu Như Tiên.
Thấy con đầu trọc, không
tóc, bố khóc vì sung sướng, thấy con đẹp như tiên nữ, hạnh phúc quá, bố ôm con
vào lòng, nghẹn lời không nói.
Các cháu biết hy sinh chuyện riêng tư để nghĩ đến
tha nhân thì đó là những tấm gương sáng cho đời noi theo. Gương sáng không nên
cất trong tủ để soi một mình mà hay đưa cho mọi người soi chung, làm đẹp chung.
Học giỏi và thành công của tuổi trẻ gốc Việt thì
đông lắm, nhiều lắm, vì nhiều lý do, các cháu còn phải lo chuyện riêng tư cũng
là điều hợp lý, nhưng quý biết bao những tấm gương tuổi trẻ mà tôi vừa nêu
trên. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chúng ta không nhắc tới tuổi trẻ đang tiếp bước
cha ông để tham gia vào dòng chính, tranh đấu tự do cho Việt Nam.
Trong các buổi lễ cộng
đồng tại Nam CA, hẳn độc giả thường thấy một toán thanh thiếu niên trong quân
phục TQLCVN rước Quốc Quân Kỳ, kể cả nghi lễ chào kính và biểu tình chống Cộng,
các buổi gây quỹ cho thương binh VNCH và ủng hộ tuổi trẻ trong nước đấu tranh
cho tự do dân chủ, thưa... đó là thế hệ thứ hai, thứ ba của TQLCVN, các cháu YM
(Young Marines). Trong số này có cháu đã tốt nghiệp ngành luật, ngành y. Chim
đầu đàn YM là cháu Thu Hà, ái nữ của TQLC Định Nguyên. Các cháu đang là những
mầm non để nối tiếp anh chị đi trước, để làm đẹp cho cộng đồng tỵ nạn gốc Việt.
Trong lãnh vực chính trị, tuy chỉ mới 40 năm mà
nhiều tuổi trẻ gốc Việt đã đang là những vị dân cử, đó là niềm hãnh diện, không
riêng cho cộng đồng người Việt hải ngoại, mà ngay cả báo chí trong nước cũng loan
tin, người Việt trong nước cũng không tiếc lời khen ngợi và chúc mừng các vị
dân cử này thành công.
Trong mùa bầu cử tháng 11/2014, riêng tại Orange
County, CA, tuổi trẻ gốc Việt đã mang hết tâm huyết vào một cuộc tranh cử với
những ứng cử viên kỳ cựu dòng chính và tuổi trẻ gốc Việt đã thắng, đã là Thượng
Nghị Sĩ Tiểu Bang, là 3 Thị Trưởng và nhiều nghị viên thành phố, ủy viên giáo
dục. Đáng chú ý là em Nguyễn Bảo đã đắc cử Thị Trưởng Garden Grove, hơn cựu thị
trưởng chỉ có 15 phiếu. Điều này nhắc cho những ai là người Mỹ gốc Việt hãy
quyết tâm đi bầu cử. Mỗi lá phiếu của người Mỹ gốc Việt là tiếng nói mạnh nhất
của chúng ta đối với dòng chính, dù cho không biết nói tiếng Mỹ. Có quyền nói
mà chúng ta từ chối thì hóa ra ngọng, chúng mong gì người khác nói thay hay làm
điều hữu ích cho chúng ta!
Nứơc Mỹ là môi trường lý tưởng cho tuổi trẻ tiến
thân, mới chỉ trong thời gian ngắn, gần 40 năm mà thế hệ thứ hai thứ ba đã đạt
được những thành quả đáng khâm phục thì chúng ta cứ vững tin ở các em. Các em
không những sẽ đưa cộng đồng Việt tiến xa hơn nữa, tham gia dòng chính nhiều
hơn nữa mà sẽ đem tự do, dân chủ, dân quyền về quê hương Việt Nam.
Hiện nay, nước Mỹ là nơi có số sinh viên ngoại
quốc đến học tập đông nhất, trong đó có hơn 16 ngàn sinh viên đến từ Việt Nam.
Dù cho họ xuất thân từ nguồn gốc giai cấp độc tài, nhưng họ đang sống và học
tập trong môi trường tự do dân chủ thì chính thành phần này sẽ là người đóng
đinh đậy nắp quan tài CSVN.
Tuổi trẻ ngưởi Mỹ gốc Việt, tuổi trẻ trong nước du
học Hoa Kỳ sẽ là những người cất những cái bình vôi độc tài đảng trị vào gốc
cây đa để nứơc Việt chúng ta sạch sẽ bóng bọn xâm lăng phương Bắc. Hãy tin vào
tuổi trẻ, dù ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ mà Việt Nam vẫn là Việt Nam thì ngày
nay, tuổi trẻ Việt, tự do, dân chủ, văn minh học được từ Mỹ thì đừng lo bọn
phương Bắc xâm lăng.
Nhiệm vụ chúng ta, những người đi trước hãy nói cho
tuổi trẻ biết việc chúng ta đã làm, làm dang dở trong 40 năm qua để họ tiếp
tục.
Nói với “đồng minh”, tôi xin mựơn câu nói của ông
Dan, giáo sư dạy sử của Shoreline Community College nói với một học trò cựu
quân nhân gốc Việt:
_ Từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt
Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có
thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra.
Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông.
Để kỷ niệm 40 năm tỵ nạn,
người viết xin cám ơn cộng đồng người Mỹ gốc Việt, cám ơn tuổi trẻ “Vẻ Vang Dân
Tộc Việt” về những thành quả mà chúng ta đã đạt được để hy vọng và tin tưởng
rằng tương lai tuổi trẻ gốc Việt sẽ là những dân biểu và thượng nghị sĩ Liên
Bang, những thống đốc. Tuổi trẻ hải ngoại là hậu phương vững mạnh yểm trợ tuổi
trẻ trong nước để đuổi bọn xâm lăng Trung Cộng ra khỏi lãnh thổ, lãnh hải Việt
Nam./
Philato
Philato