TQLC/VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lữa 1972
Việt
Cộng Tàn Sát Ðồng Bào Trong Mùa Hè Ðỏ Lửa
Mường Giang
Tờ
mờ sáng chúa nhật 26-6-1950, bảy sư đoàn bộ binh Bắc Hàn, với quân số tổng cộng
hơn 90.000 người, được yểm trợ bởi một lữ đoàn thiết giáp, gồm 150 chiến xa
T-34 của Nga Sô và lực lượng không quân hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ
cùng chiến đấu cơ. Tất
cả ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều Tiên, tại vỹ
tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.
Hai mươi hai năm sau đó vào giữa trưa
ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là ngày
thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem lễ, cầu nguyện
trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cọng sản Ðệ tam
quốc tế Bắc Việt, mở một cuộc tấn công ác liệt nhất trong cuộc chiến Ðông Dương
lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lãnh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà
Nội đã xử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm
các sư đoàn chủ lực 304,308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126,31,246,270,
đặc công, hai trung đoàn chiến xa mang số 203,204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn
pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu phi quân sự,
pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH tại tỉnh Quảng Trị.
Hai trận chiến trên rất giống nhau và
cũng khác nhau, giồng vì cả hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt Nam, đều
do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và Genève (
20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh,
Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là
Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ
và nổi nhục nhược tiểu mà thội.
Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu của
Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế còn sót lại,
cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua gì Trung Cộng. Tất cả
những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Dông Dương và Triều
Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu
cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc
Hàn hùng hổ lộng hành tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại
bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc Việt
thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch , tại hội nghi Genève
1954 phản đối , mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để
nóí, khi Nixon và Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng
hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết thẳng tay
hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các
nẽo đường đất nước, mà kinh khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể
sánh nổi với đoạn đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh
Quảng Trị.
Ngậm máu phun người trước dơ miêng mình,
đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự tuyên truyền
rất rẽ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà sau nay các văn nô
Hà Nội, trong đó có cán gái Dương
Thu Hương ( tiểu thuyết Vô Ðề), đều là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày
như cơm bửa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết
tù binh VC, hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt tại
Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn
vào tháng 7-1950 trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân trên đường chạy
loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại
An Lộc, Bình Ðinh, KonTum.. Nhưng dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường
xương trắng máu hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Ðại Lộ Kinh
Hoàng, ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN
cùng Nhân Loại.
Hãy đọc G.H. Turley, nguyên Ðại Tá cố vấn
TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ tên
Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố Quảng Trị
‘ không ngờ tôi đã làm nhân chứng, cho một hình ảnh thãm khốc, của cuộc chiến
VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào giải thích nổi
, khi tập trung các loại pháo nặng , thiết giáp để trực xạ vào đoàn người di tản.
Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan khiên, trong đó phần lớn là người
già yếu, đàn bà và trẻ nít
.. ‘.Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết ‘vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng Nhảy
Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nhìn thấy những thảm
họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Ðại Lộ Kinh Hòang. Kéo dài hàng chục dặm
trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn
nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dầi dầu chịu đựng
mưa nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên vẫn còn
nhiều xác kẹt trong xe,suốt hai bên đường quốc lộ số 1 ‘.
Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác
dã man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn
quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 ‘ sự chết trên 9 cây số
đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên
đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người..
’ ’ ’.Thê thảm
quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới va những người Việt Cộng do
Hồ Chí Minh ươn trồng, không còn một chút tình VN và hơi hám của con người đi bằng
hai chân biết nói.
1-Quảng
Trị, miền địa đầu giới tuyến :
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới tuyến
ngăn đôi đất nước bởi dòng Bến Hải. Ðây là một con sông nhỏ phát nguyên từ dãy
Trường Sơn, chảy ra Ðông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía
bên kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là
biển. Trước khi xãy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966
km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972,
diện tích Quảng Trị chỉ còn có 164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh
và Hải Lăng nhưng dân số tới 202.338 người. Ðiều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến
tranh, chỉ chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn
ác dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu, thì đồng bào đều phải bỏ của để chạy
lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ tỉnh,
chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải, Thạch Hản và Mỹ
Chánh mà cả ba đã vô tình qua sự sắp xép của lịch sử, trở thành ba con sông
biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN . Tỉnh còn có hai quốc lộ 1 và 9,
cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm
sát.
Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069
khi vua Lý Thánh Tôn, thân chinh đánh
Chiêm Thành bắt được vua Chàm là Chế Củ. Ðể chuộc mạng, vua dâng ba châu Ðịa
Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay ). Sau đó vào năm 1306
Huyền Trân Công Chúa vì nước quên mình, chịu gã cho vua Chế Mân, để đem về cho
Ðại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần
Nhân Tông, đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh
và Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp
của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hòang được vào trấn thủ Thuận Hóa vào tháng 10 năm
Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu Phong. Vì là đất cổ của Ðại
Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành
Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885,
Vương Cung Thánh Ðường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Ðinh Công Tráng.
Thành cổ Ðinh Cộng Tráng được xây dựng từ
năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838, thành được xây lại
bằng đá gạch, với chu
vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được
bao bọc bởi vòng hào , rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là
doanh trại của sư đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu
Khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự
phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ Văn Giai tư
lệnh SD3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến Quảng Trị, trong trận
mùa hè năm 1972.
Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa Kỳ trong
các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm
quân và cường độ tấn công vùng giới tuyến, so với những năm về trước. Do trên,
các cấp lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới quân đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ
chẳng bao giờ có ý đồ tấn công qua sông Bến Hải. Ðây chính là lý do đã giao trọng
trách phòng thủ miền giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hính
thành được vài tháng. Ðó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân
số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Ðoàn 2 BB rất
thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB lừng danh miền
giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập mà quân số được bổ sung, từ
các lao công đào binh, quân dịch
và các đơn vị DPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm
hành quân và tác chiến cấp vùng..
Quảng Trị lúc đó, được tăng phái
thêm Lữ đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây tỉnh, với
trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng
SD3BB phòng thủ vỹ tuyến : Trung đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất
tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Ðính chỉ huy trách nhiệm phòng thủ các căn cứ
Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn 147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ
A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới
cầu Hiền Lương trên quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới
biển, do lực lượng DPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.
2-Trận
chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị :
Ðúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại tướng
Võ Nguyên Giáp tổng tư lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn
Huệ, xua 40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công
QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Ðể mở đường qua sông, , pháo binh cọng sản, vói
các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên
kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức
độ tàn phá kinh khủng chưa từng có.
Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SD3BB đang
hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh
thần binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó bộ binh, chiến
xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau,
khiến cho các căn cứ hỏa lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn
công biển người.. Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt
khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn
giữ. Ðại chiến long trời lỡ đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài
Gòn và Ðà Nẳng, nhưng lúc đó
dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn còn chưa tìn là Hà Nội dám vượt
sông Bến Hải. Chính điều này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người
lính, chịu thương vong oan khiên , trên các con đường di tản trước biển giặc.
Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lử đoàn
258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48 mới được tăng cường cho SD3BB tại mặt trận
Ðông Hà. Ngay lúc đó, SD308 cọng sản
đang tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn
SD304 thì tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu,
nên không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, còn hải pháo cũng
chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo
đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi với
hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.
Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy
tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Ðồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương
Hóa, Gio Linh, Ðông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo
nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng
ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo bình và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây
thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa
chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Ðạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn,
hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân
lính, thành phố đông người. Do đó
trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Ðông Hà trở thành địa ngục trần
gian đau khổ, mà không một ai có thể ngờ tới.
Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại
núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối, sau khi hứng
chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Ðông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo
kích nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ hải pháo của Ðệ Thất Hạm Ðội
Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị , bắn vào yểm trợ., trong lúc thời tiết càng xấu
thêm, nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa
lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SD3BB trấn giữ , bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và
Khe Gió thì di tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TD8TQLC , bị tràn ngập lúc
12 giờ 30 khuya đêm 2-4. Tình hình
chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô
cùng thê thảm , khiên cho các cấp chỉ huy của SD3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần
như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.
Rồi Bộ Tư Lệnh tiền phương của SD3BB được
lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm
TD3PB/TQLC và TD7TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực
Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp viện. Trung đoàn
57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Ðông Hà, để lại cho giặc
nhiều khẩu đại bác 155 ly.
6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bổng có tin TQLC Hoa Kỳ đã đổ
bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân
trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn
công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TD3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh
giữ cầu Ðông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, vì bộ đội và chiến xa cọng sản,
chuẩn bị vượt cầu Ðông Hà. Ngày 3-4, Trung Ðoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi
khi rút về Cam Lộ, nên không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung
Tá Phạm Văn Ðính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TD1 Pháo
binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt.
Ðây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Ðông Dương lần 2. Tình hình đã quá
nguy ngập, nên cầu Ðông Hà được lệnh giật xập, chận được bước tiến của giặc
trong một thời gian ngắn. Lử đoàn 369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng
Trị.
Ngày 4-4, Lử đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ
luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công biển
người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lử đoàn này được lệnh về Huế bổ
sung và tái trang bị.. Riêng TD7 TQLC vì quân số còn nguyên vẹn, nên được lệnh
giự còn đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây,
chỉ còn có TD1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành
phố mà thôi.
Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập,
nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy
tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SD3 là 2 và 57,
hai Lử đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, hai Thiết đoàn 17
(M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân + NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh.
Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất, giửa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QÐ1)
từ Ðà Nẳng và Chuẩn tướng Vũ Văn Gian (Tư lệnh SD3BB) tại chiến trường, khiến
cho tình thế đã không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt
trận. Cuối cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đã ban lệnh
di tản.
Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa
pháo, TD 3 TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và Biệt Ðộng Quân ra thay thế giữ bờ
nam Ðông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cọng sản đã thảm bại khi trực chiến với
TD6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn
do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khac bị
bắt sống đem về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TD6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng
Hoàng vào ngày 12-4.
Một cuộc hành quân đại qui mô do Trung tướng
Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày 14-4 với mục đích tái chiếm các
căn cứ ở phía tây đã mất. Cùng lúc, cọng sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn công lớn
vào Ái Tử, Ðông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt
con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Ðể chống lại âm mưu trên,
tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến đoàn đặc
nhiệm : Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Ðông Hà. Thiết đoàn 1 + 20 + 2 Lừ Ðoàn
4,5 BDQ do Ðại tá chỉ huy trưởng LD1 TG chỉ huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lử đoàn
258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba
Lòng tới bờ tây sông Thạch Hản, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố.
Cuối cùng là Liên Ðoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết
mạch từ Quảng trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các
cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn
công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố . Trong số này, nguy khổn nhất là
cánh quân của LD5 BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiến tính đến ngày 18-4,
các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vửng đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.
Ngày 22-4, Lử đoàn 147 TQLC sau khi được
bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LD 258 TQLC phòng
thủ căn cứ Aí Tử. Trong đêm
CS pháo kích làm nổ kho tiếp liệu của SD3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu
và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Ðà Nẳng
tới. Nyày 23-4, bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với
QLVNCH, Không quân và Hải pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn
công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai phía,
trong đó phần lớn là đồng
bào chạy lánh nạn.
Trong lúc đó gần tháng qua, người lính Miền Nam các
cấp, từ TQLC,BDQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ.. ngày đêm thiếu ăn mất
ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào , chịu pháo, chịu đạn giữa rời mưa gió. Cùng
lúc khắp các nẽo đường Quảng Trị , đồng bào chiến nạn gục chết thê thảm bởi cảnh
pháo kích bừa bãi của bộ đội Bắc Việt. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục
trần gian thứ hai sau An Lộc tỉnh Bình Long cũng đang bị CS tấn công vây khổn.
Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của
quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh,
Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn
ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn trên quốc lộ 1. Các cánh
quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã
tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SD3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên
lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.
Ðúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại
phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của đích,
cánh quân của Liên Ðoàn 5BDQ và Thiết Ðoàn 20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước
nhưng bị pháo 130 ly của Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác
105,155 ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LD4,5 BDQ,
LD 1 Thiết kỵ và Trung Ðoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ Ái Tử và thành
phố Quảng Trị.
Ngày 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản tấn công
Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển,
cọng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn cọng các Tiểu đoàn DPQ + NQ
của Tiểu Khu Quảng Trị. Tình trạng hổn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải
quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hản phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57
BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngủ , để chạy theo gia đình đang di tản về
Huế.
Quốc lộ số 1 đã bị cọng sản đóng chốt nhiều đọan,
từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử.
Do đó đoạn đường huyết
mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng
máu hồng., mà bia miệng và sử liệu gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập
thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
3-Rút
bỏ Quảng Trị :
Ngày 30-4, tư lệnh chiến trường kiêm tư
lệnh SD3 BB là chuẩn tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng,
để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui
quân, LD 147TQLC và TD2.Pháo binh/TQLC , với quân số trên 2000 người, khi quân
qua cầu Thạch Hản thì cầu bị xập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ , đại
bác và quân trang dụng.. phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản.
Lúc đó
Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ , giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu
cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Ðồng thời phải giải tỏa
quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt., nhất
là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao
thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Ðây là mục tiêu
chính, để quân Bắc Việt , tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn, bằng đủ loại súng lớn
nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa
cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe
cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi
qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.
Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng
Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi
ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là
tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem
so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai
mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo
và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá.
Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc
phòng điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh
SD3BB, đã viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng
cuối cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ
quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ 40 ‘ cùng ngày. Cổ
thành Ðinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp
100 lân thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay cọng sản Bắc Việt , tối ngày 2-5-1972.
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng Trị, gồm Lữ
đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1, 4 Biệt động quân và các đơn vị của SD3BB, vừa phải
bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng
nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều
thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị
Bắc Việt cưởng chiếm.
Nhưng sau đó giặc từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể
cả đặc công, đã hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chanh, bởi Lử Ðoàn 369
Thủy quân lục chiến, do Ðại tá Phạm Văn Chung chỉ huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được
bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, với vị Tư lệnh mới là
Trung tứơng Ngô Quang Trướng (thay tướng Hoàng Xuân Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh
đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Dinh
Công Tráng cũng được hoàn toàn giải phóng,vào đêm 14-9-1972, khi người lính của Ðại Ðội
3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc Dân VNCH trên kỳ
đài. Những tên bộ đội
cuối cùng của Trung đoàn 48 cọng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hản,
sau 82 ngày bám trụ.
4-Nguyên
nhân và hậu quả cuộc chiến 1972 :
Ðầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ
mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa
Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến , do trí thức, báo
chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dân cao, còn quốc hội Mỹ, dưới
sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với
sự tham chiến tại VN. Cuối cùng quân Mỹ và Ðồng Minh rút hết về nước, QLVNCH bị
cắt giảm hỏa lực và quân trạng dụng. Ðó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn,
vượt tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972 để dành ưu
thế trên bàn hội nghị Ba Lê sắp tới.
Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và
bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55,
PT76, đại bác 130,155 ly, súng phòng không 23,57 và hoả tiển tầm nhiệt SA 7 (nợ
chiến phí này ngày nay VC đem đất đảo biển VN trả nợ cho Tàu đỏ. Cho mươn Cam
Ranh và liên doan khai thác dâù hoa với Nga Sô để trả nợ). Ðồng thời xử dụng hết
số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136.400 người, bất thần mở
cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH.. Y chang như trận Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt
chỉ thắng lợi lúc ban , sau đó đại bại hầu hết trên khắp các mặt trận, cho dù đại tướng
Võ Nguyên Giáp, đã xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của
đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.
Ðối với Hoa Kỳ khi nhận được tin Bắc Việt
vượt vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền Nam. Tổng thống
Nixon họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ
trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Nhưng bộ binh không được tham dự, đồng thời
cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục.
Do đó
Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không mẫu
hạm Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng
cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral
Sea và Hancook, cùng một
số lớn tàu tuần duyên , khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về
Không Quân , từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 chiến thuật , cùng với 3 phi đoàn
F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Ðồng thời tất cả B52 tại hai căn cứ Anderson
Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38 chiếc
cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng thống Nixon còn ra lệnh
vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại
Hà Nội , Hải Phòng. Ðồng thời thả mìn và thủy lôi , phong tỏa các cửa sông, cửa
biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Ðông Âu, tiếp
tế vũ khí đạn dược , cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo
dài trong 11 ngày đêm, từ 18/12 đến
29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội
nghị tại Ba Lê với Mỹ.
Theo J.Pimlott trong tác phẩm Vietnam
The Decisive Battles, thì cuối tháng 9-1972, cọng sản Bắc Việt thương vong khoảng
100.000 người. Riêng VNCH, dồng bào và lính chết chừng 50.000 người. Nhưng theo
W.H Morrison trong The Elephant & The Tiger thì Cọng sản Bắc Việt chẳng những
đã thất bại về quân sự, mà còn không đạt được mục tiêu chính là dành dân chiếm đất,
trừ tỉnh Quảng Trị bị tạm chiếm trong lúc đầu. Tướng Võ Nguyên Giáp bại trận và
danh liệt từ đó cho đến ngày
nay, vì đã lầm lẫn khi hoạch địch kế hoạnh tấn công . Không biết xử dụng nhị thức
‘ Thiết giáp-bộ binh ‘ như các tướng lãnh VNCH lừng danh : cố đại tướng Ðổ Cao
Trí, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và Chuẩn tướng Trần Quang Khôi. Ðã đánh giá sai lầm
tinh thần chiến đấu của QLVNCH, dù đã bị đánh lén cũng như bị thua thiệt về hõa lực.
Sau hết là ảo tưởng rằng khi bộ đội đếu đâu, dân miền Nam sẽ đồng khởi,
lật đổ chính quyền. Nhưng mọi sự hoàn toàn trai ngược, vì cọng sản tới đâu, dân
miền Nam bỏ chạy tới đó,
do trên bộ đội tức giận , thẳng tay bắn giết đồng bào mà chúng gọi là nguỵ dân.
Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn
bộ binh bị tan hàng. Ðó là SD22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SD3BB tại Quảng Trị.
Nhưng sự tan hàng và cung cách hành xử của hai tư lệnh sư đoàn trên, cũng khác
biệt. Tại Kontum, lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, do SD22BB
trấn giữ. Ðại Tá Lê Ðức Ðạt, tư lệnh của SD, đã từ chối lời mời của Ðại tá cố vấn
Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vân Mỹ tại QDII là Paul Vann. Ông
cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du, Tư lệnh Quân Ðoàn, chịu ở lại, để cùng chết
với binh sĩ của SD22BB. Riêng SD3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn
56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ chạy. Còn tướng
Vũ Văn Giai, tư lệnh SD, hứa ở lại để cùng di tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại
thất hứa, leo lên trực thăng để di tản với cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày
1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư Lệnh và Ðại Ðội Tổng Hành Dinh của SD3BB, như
rắn mất đầu, phải chạy theo Thiết Ðoàn 18 về Huế.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ,
như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH, thì người
Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khôn lại càng tận tuyệt.
Theo Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ tư lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ
vào vùng phi quân sự, tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính 27
km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Ðại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiển Sam, của
cộng quan bắn hạ tại vùng Cam Lộ.
Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu của trận
chiến vùng hỏa tuyến., tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn , khi di
chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và
tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc vây khổn và
pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả
bom san bằng, khiến cho BTL / SD3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật.
Ðó là tất cả những chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới,
cũng phải chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.
Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng
bào và người lính trận trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cách trọn vẹn,
qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này, những chổ không
bao giớ có bóng dáng các vị trí thức, giáo sư, nhà báo, ký giả đi ăn mày hay
nhà văn nhà thơ gì gì đó,
mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng
hoảng tinh thần.
Trong thảm tuyệt tận cùng này, người
quốc gia từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH,
ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem lại sự bình an
hạnh phúc cho hậu phương mà hận nhất là phải bảo vệ mạng sống cỏ rơm cho tên ký
sinh trùng ‘ TRỊNH CÔNG SƠN ‘ phản tặc và phản chiến, đâm sau lưng nười lính người
dân bằng những ca khúc được vót nhọn bằng mã tấu dao găm chữ nghĩa.
Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc đồng bào như
chính bản thân mình. Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu
vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh quanh , đều là những viên
thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy
khốn. Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được
người lính đối xử nhân đạo với tình đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù
thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.
Trần Ðức, một người lính nhẩy dù, trên đường
tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Ðại Lộ Kinh Hoàng, đã không cầm nổi
nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn
máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra
tung tóe.
Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết
đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những
xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ còn bám vào bộ xương
khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới một
bụi gai. Có xác khô đét
như người tiền sử nằm giữa đám
cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng
che chở cho mình thoát tầm đạn giặc.
Ðó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng
cối 61 lý và B40 .Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác xạ vào đám dân Quảng Trị
chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người
già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công “Mùa Hè Dỏ
Lửa năm 1972” ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm cảnh
người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng sản Bắc Việt.
Ðoạn đường
mang tên “Dại Lộ Kinh Hoàng” nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội
ác. Họ đã được thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước
đắm chìm trong tù gông nô lệ cũa thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập
thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương
thơm tưởng nhớ.
Không
ai dám hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả
lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến
nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không
sao có thể ngờ dược là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Vào ngày
28-4 đến ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh
Quảng Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu
cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Dỏ Lửa năm 1972
tại Quảng Trị., mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ đi từng nhà để ngăn
cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xẹ Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì
chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn
nhân của cộng sản trong Mùa Hè Dỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.
Mới đây
báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh
Triều Tiên năm 1950. Báo viết lính Mỹ gài mìn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà
tiến quân Bắc Cao. Sau đó vì hốt hoảng hay lý do nào khác , khiến lính Mỹ hạ
sát hằng trăm người tị nạn đang trốn dưới vòm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ
nghe mờ mịt và đang trong vòng tranh cải.
Khi viết tin trên, không biết VC có khi nào
sám hối về những hành động bắn giết đồng bào mình, trong cuộc chiến vừa qua và
sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay. Ðau đớn và nhục nhã
nhất là VC lúc nào cũng xua công an bộ đội tàn sát người dân vô tội khắp nước,
trong khi đó thì quì mọp sát đất dang biển bán đảo cho Tàu Ðỏ một cách đê hèn.
Nhưng
đâu có gì la vì mang nợ thì phải trả nợ thế thôi.
Bởi
vậy ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình và trên hết chỉ làm trò cười cho
kẻ khác mà thôi. Ba chục năm máu lửa (1945-1975) chỉ vì trành dành quyền lực mà
Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã tìm đủ mọc cách, trong đó bi thảm nhất là đem giang
sơn gấm vốc Hồng Lạc để đánh đổi với Tàu đỏ để có súng đạn và phương tiện mang
về giết hại đồng bào. Rồi cũng chỉ vì muốn bảo vệ chiếc ngai vàng đẳm máu, đảng
CSVN lại cúi đầu nhắm mắt đem cẩm tú non sông Việt bán dần mòn cho giặc cướp phương
Bắc. Trong khi đó vẫn thẳng tay tàn sát đồng bào mình.
Nghiệt
ngã của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy mà còn nhiều tên việt gian tại hải ngoại cứ
dững dưng ca tụng Hồ và đòi hòa hop hoà giải với vòng ôm lớn cùng VC.
Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2015
MƯỜNG GIANG